T6, 07 / 2019 3:55 chiều | admin

Báo cáo đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và chính sách ưu đãi tài chính của Bộ Tài chính cho biết, đóng góp vào ngân sách nhà nước của doanh nghiệp FDI tăng trưởng chậm hơn so với tăng trưởng của năng lực hoạt động, lý giải một phần do doanh nghiệp FDI được hưởng nhiều ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp khi đầu tư lớn vào các ngành, lĩnh vực ưu đãi và đặc biệt ưu đãi đầu tư.

Hình minh họa

Hưởng nhiều ưu đãi thuế

Theo báo cáo năm 2012, khu vực doanh nghiệp FDI đóng góp vào ngân sách nhà nước (NSNN) chưa kể thu từ dầu thô hơn 83 nghìn tỷ đồng, năm 2013 hơn 111 nghìn tỷ đồng, năm 2014 hơn 123 nghìn tỷ đồng, năm 2015 hơn 140 nghìn tỷ đồng, đến năm 2016 là 161 nghìn tỷ đồng, chiếm 19% tổng thu của NSNN và đến năm 2017 chiếm 14,5% tổng thu của NSNN.

Tuy nhiên, tốc độ tăng về số nộp NSNN (7%) của khu vực doanh nghiệp FDI năm 2017 so với năm 2016 thấp hơn tốc độ tăng về lợi nhuận trước thuế (19,2%) và lợi nhuận sau thuế (22,6%) cho thấy đóng góp vào NSNN của doanh nghiệp FDI tăng trưởng chậm hơn so với tăng trưởng của năng lực hoạt động, lý giải một phần do doanh nghiệp FDI được hưởng nhiều ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) khi đầu tư lớn vào các ngành, lĩnh vực ưu đãi và đặc biệt ưu đãi đầu tư.

Về ưu đãi thuế TNDN: Hiện nay, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 (Luật số 32) thì mức thuế suất phổ thông từ 25% giảm còn 22% và xuống mức 20% áp dụng từ ngày 01/01/2016.

Đối với ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được tiếp tục cập nhật, sửa đổi, trong các năm 2001, 2005 và 2016 như: bổ sung thêm doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được trong thời hạn 05 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất, bổ sung quy định miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, lắp ráp trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo.

Trong ưu đãi về tài chính đất đai, giai đoạn từ năm 2005 đến nay, để hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ, cụ thể: Giảm 50% tiền thuê đất trong giai đoạn từ năm 2011-2014; Điều chỉnh giảm mức tỷ lệ (%) tính đơn giá thuê đất chung từ 1,5% (quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP) xuống còn 1% (quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP) và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể mức tỷ lệ (%) trong khung từ 0,5% đến 3% theo từng khu vực, tuyến đường tương ứng với từng mục đích sử dụng đất để áp dụng thu tiền thuê đất tại địa phương…

Báo cáo đánh giá bên cạnh những tác động tích cực vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Theo đó, mức ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI hiện còn cao, diện ưu đãi còn rộng và dàn trải làm suy giảm nguồn thu NSNN trong khi NSNN đang rất thiếu để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế – xã hội ví dụ như: thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Ngoài ra một số trường hợp còn được áp dụng mức thuế suất 10% áp dụng trong suốt thời gian thực hiện dự án.

Mặc dù chính sách ưu đãi thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, tuy nhiên khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang được hưởng nhiều hơn từ chính sách ưu đãi: Tỷ trọng về số thuế TNDN được ưu đãi miễn, giảm của doanh nghiệp FDI trên tổng số thuế TNDN được miễn giảm của doanh nghiệp cả nước là 76%.

Tỷ lệ về số thuế TNDN được ưu đãi miễn, giảm của doanh nghiệp FDI trên tổng số thuế TNDN phải nộp tính theo thuế suất phổ thông là 48%, trong khi tỷ lệ này của DNNN là 4,6%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 14%.

Mặt khác, việc lồng ghép chính sách xã hội vào chính sách ưu đãi thuế TNDN làm cho chính sách thuế thêm phức tạp, khó quản lý, dễ tạo sơ hở để doanh nghiệp lợi dụng giảm thuế phải nộp, gây nên tình trạng bất công bằng trong động viên thuế giữa các đối tượng.

Một số ngành, lĩnh vực chính sách ưu đãi thuế còn chưa đạt được các mục tiêu theo định hướng ví dụ như: mục tiêu nội địa hóa ngành ôtô, công nghệ cao…

Ưu đãi thuế không phải là yếu tố quyết định

Tại buổi làm việc với Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ về doanh nghiệp FDI tại Việt Nam tuần qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cũng nhận định, hiện nay nước ta ưu đãi quá nhiều, ưu đãi từ ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, dự án đầu tư, dự án mở rộng, sản phẩm, địa bàn, quy mô dự án, số lượng lao động… vì vậy cần phải có đánh giá lại về các chính sách ưu đãi này.

Mặt khác, cần nghiên cứu chuyển đổi chính sách ưu đãi thuế, đầu tư từ thiên về sử dụng quy mô vốn và lao động, dự án sang tiếp cận theo chiều dọc, nâng cao giá trị gia tăng, sử dụng công nghệ cao, tiên tiến, thân thiện với môi trường, có tính lan tỏa, kết nối được với các doanh nghiệp trong nước.

Đề xuất giải pháp, theo Bộ Tài chính cần nghiên cứu một cách tổng thể để từ đó xây dựng hệ thống chính sách pháp luật minh bạch, đơn giản, tránh chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản luật gây khó khăn cho nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, ví dụ việc ưu đãi về thuế chỉ thực hiện theo pháp luật về thuế để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật.

Bên cạnh đó quan điểm về thu hút đầu tư nước ngoài cần thay đổi theo hướng ưu đãi thuế không phải là yếu tố quyết định. Để đảm bảo được tính hiệu quả của các chính sách ưu đãi thuế thì các yêu cầu về đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự ổn định và minh bạch của thể chế có ý nghĩa rất quan trọng.

Theo đó cải cách ưu đãi thuế nhằm tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn và một số ít ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước trong giai đoạn sắp tới trên cơ sở thu hẹp diện ưu đãi theo ngành, lĩnh vực, chỉ tập trung khuyến khích ưu đãi thuế vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, lĩnh vực xã hội hóa, công nghệ, môi trường và liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Thống nhất toàn bộ ngành, lĩnh vực, địa bàn ưu đãi thuế được quy định tại các Luật thuế, không thực hiện theo các luật chuyên ngành.

Về chính sách ưu đãi tài chính khác cần hoàn thiện chính sách ưu đãi về đất đai theo hướng rà soát lại các ưu đãi về đất đai để đảm bảo tính đồng bộ giữa pháp luật đất đai, pháp luật về đầu tư và các chính sách khác của Nhà nước. Xác định rõ đối tượng được hưởng ưu đãi về đất đai để ưu đãi của Nhà nước đến được trực tiếp với người được thụ hưởng. Việc ưu đãi phải thực chất và chỉ nên thực hiện đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội, bảo vệ môi trường, đầu tư vào địa bàn kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn và các đối tượng chính sách.

Mọi tin tức mới nhất về đầu tư nước ngoài cũng như các vấn đề pháp lý khác sẽ được Blue cập nhật liên tục.

Bài viết cùng chuyên mục